Web Content Viewer
ActionsCông tác bảo vệ môi trường trong trong quân đội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
(Bqp.vn) - Ngày 14/4/2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường (BVMT) trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH). Tiếp theo đó, ngày 27/2/2007, Chính phủ ban hành Nghị định 16/2007/NĐ-CP về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên WTO. Một trong những nội dung lớn của Nghị định đó là định hướng và các giải pháp chiến lược nhằm BVMT, yếu tố quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trong đó, quân đội được coi là một lực lượng chủ yếu tham gia vào công tác BVMT, khắc phục hậu quả chiến tranh, cùng với các lực lượng khác thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả thiên tai, thảm hoạ, giúp đỡ nhân dân trong khu vực xảy ra thiên tai, thảm hoạ môi trường.
Về công tác BVMT trong quân đội. Trước đây, trong hoàn cảnh chiến tranh, vấn đề BVMT không được đặt ra như hiện nay (về mặt quan niệm), bộ đội ta tập trung nghiên cứu sử dụng các yếu tố môi trường phục vụ cho tác chiến, các nghiên cứu ứng dụng cụ thể chủ yếu nhằm bảo vệ sinh lực, trang thiết bị, khí tài chiến đấu trước những tác động vũ khí hoá học của địch; các hoạt động quân y phòng chống dịch bệnh, tẩy uế, khử trùng khu vực đóng quân và khu vực tác chiến; các hoạt động của bộ đội công binh khắc phục bom, mìn, vật nổ…
Trên thực tế, việc triển khai công tác BVMT trong quân đội được tiến hành rất sớm, có thể nói là đi trước các bộ, ngành khác. Ngày 29/7/1995, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã ký quyết định số 428/QĐ-TM thành lập Phòng Quản lý Môi trường, giao nhiệm vụ cho Cục Khoa học Công nghệ và Môi trường là cơ quan thực hiện chức năng quản lý Nhà nước, tham mưu, tư vấn cho Bộ các hoạt động BVMT trong quân đội. Đây là một quyết định xuất phát từ thực tiễn môi trường đóng quân của các đơn vị quân đội cũng như những mối nguy hiểm mà nhân dân đang gặp phải từ những tàn dư, hậu quả của chiến tranh để lại như chất độc, bom mìn… Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã sử dụng hàng triệu tấn bom đạn, hàng nghìn tấn chất độc CS, bom đạn hoá học, hàng chục triệu lít chất độc da cam diệt cỏ, các chất thải quân sự trong chiến tranh tại các căn cứ cũ của Quân đội Mỹ và đồng minh đến nay vẫn đang là các nguồn gây ô nhiễm nguy hại gây hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường, sinh thái và con người. Đặc biệt, tại các kho bãi, bến cảng, sân bay được sử dụng trong các chiến dịch phun rải và vận chuyển, tập kết chất độc da cam được coi là các “điểm nóng” ô nhiễm chất độc hoá học/điôxin vượt tiêu chuẩn vài trăm lần so với ngưỡng cho phép của Cục Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ đối với đất phi nông nghiệp.
Những kinh nghiệm về hoạt động BVMT của bộ đội ta trong giai đoạn chiến tranh giải phóng trước đây đã tạo tiền đề thuận lợi để phát triển các hoạt động BVMT của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay. Song song với nhiệm vụ chính trị trọng yếu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, quân đội còn đóng vai trò là lực lượng nòng cốt trong chiến lược bảo vệ môi trường, tạo cơ sở nền tảng cho đất nước phát triển bền vững về mọi mặt.
Từ năm 1995 đến nay, cùng với những kết quả đã đạt được trong công tác BVMT, khắc phục hậu quả chiến tranh, bảo đảm an toàn cho đời sống của nhân dân trong các khu vực bị ô nhiễm, khôi phục và phát triển sản xuất tại các vùng đất bị chiến tranh tàn phá, hệ thống tổ chức, quản lý BVMT quân sự đã được phát triển tương đối toàn diện và đồng bộ. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Cục Khoa học - Công nghệ & Môi trường mà trực tiếp là Phòng Quản lý môi trường đã nỗ lực triển khai xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về môi trường; xây dựng lực lượng nòng cốt cứu hộ, cứu nạn, khắc phục thảm hoạ môi trường, thiên tai, ô nhiễm, bom mìn, vật nổ, chất độc hóa học/điôxin đến việc quản lý chất thải nguy hại phát sinh từ các hoạt động quân sự; quan trắc môi trường quân sự và tham gia quan trắc môi trường quốc gia; nghiên cứu công nghệ xử lý môi trường; hợp tác quốc tế về BVMT (các hoạt động thực hiện các điều ước quốc tế về BVMT, chất độc hoá học và an toàn bức xạ hạt nhân); thực hiện xây dựng báo cáo tình hình tác động môi trường, cấp phép và kiểm toán môi trường; tiến hành các hoạt động giáo dục, truyền thông nâng cao ý thức, trách nhiệm, hiểu biết về BVMT trong toàn quân; thanh tra, kiểm tra hoạt động BVMT; nâng cao năng lực, khai thác sử dụng hợp lý tài nguyên môi trường các khu kinh tế quốc phòng; điều tra cơ bản và quản lý bảo vệ môi trường tài nguyên biển… Những kết quả đạt được trong hoạt động quản lý môi trường quân sự đã góp phần cùng với các bộ, ngành và nhân dân giảm thiểu đảng kể tình trạng ô nhiễm, đảm bảo môi trường trong sạch cho phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ an ninh, quốc phòng.
Tuy nhiên, hoạt động BVMT của Bộ Quốc phòng hiện còn đang đứng trước nhiều thách thức nặng nề:
- Hoạt động BVMT trong quân sự còn chưa được quy hoạch tổng thể, đồng bộ, nhiều vấn đề môi trường bức xúc ở các đơn vị vẫn chưa có khả năng giải quyết cơ bản theo hướng phát triển bền vững; trong đó việc lồng ghép giữa thực hiện nhiệm vụ chính trị đơn vị với việc thực hiện luật BVMT và các quy định BVMT khác của Nhà nước còn nhiều bất cập;
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, quy trình công nghệ sản xuất quốc phòng lạc hậu cũng là nguyên nhân gây nên ô nhiễm trong khi nguồn lực dành cho công tác BVMT thiếu, hoặc triển khai hệ thống thiết bị BVMT chưa đồng bộ hiệu quả thấp;
- Công tác BVMT trong cán bộ lãnh đạo, chỉ huy và chiến sĩ vẫn chưa thực sự được coi trọng đúng mức, trình độ nhận thức về BVMT nói chung còn thấp. Cũng như hoạt động công nghiệp quốc phòng, các hoạt động huấn luyện, diễn tập và ngay trong khu vực đóng quân thường xuyên của các đơn vị quân đội cũng luôn phát sinh các chất thải gây ô nhiễm môi trường, thậm chí có các chất thải nguy hại đặc thù quân sự gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Việc tiến hành các giải pháp cụ thể nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường từ sinh hoạt và huấn luyện tại các đơn vị vẫn chưa được triệt để và đồng bộ;
- Tác động của hội nhập quốc tế, hợp tác liên ngành, liên khu vực đang là những nguyên nhân lớn gây nên các vấn đề phức tạp về môi trường.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng hiện trạng môi trường quân sự và những vấn đề liên quan, để thực hiện tốt công tác BVMT, Bộ Quốc phòng chủ trương xây dựng kế hoạch hành động BVMT gắn với nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phát triển bền vững. Quan điểm chỉ đạo hoạt động BVMT quân đội được quán triệt đối với toàn quân là:
- BVMT là một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm sức khoẻ bộ đội, tăng hiệu quả hoạt động quân sự của các đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN;
- BVMT vừa là mục tiêu, vừa là nội dung cơ bản của phát triển bền vững và phải được lồng ghép trong mọi nội dung chỉ đạo quy hoạch chiến lược, chương trình mục tiêu, các dự án đầu tư nói chung và dự án BVMT nói riêng, cũng như trong mọi hoạt động thường xuyên của đơn vị. Mối quan hệ này cần được các cấp lãnh đạo, chỉ huy quan tâm giải quyết đồng bộ ở mọi nơi, mọi lúc;
- BVMT lấy phương châm phòng ngừa là chính, đối với các biện pháp giảm thiểu và xử lý ô nhiễm, khắc phục suy thoái, cải thiện môi trường, bảo tồn thiên nhiên… cần kết hợp giữa công nghệ hiện đại với các phương pháp truyền thống đi đôi với các biện pháp hành chính;
- BVMT là quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cán bộ, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng của các đơn vị trong toàn quân. BVMT phải gắn với bảo vệ lợi ích quốc gia, không gây phương hại đến an ninh, quốc phòng;
- Việc tăng cường đào tạo, giáo dục nâng cao năng lực và ý thức BVMT, xã hội hoá công tác BVMT trong toàn quân là yếu tố quan trọng nhất trong hoạt động BVMT.
Nhằm thực hiện hiệu quả các nội dung chỉ đạo của Bộ, trong thời gian tới cần tập trung tiến hành các nhiệm vụ lớn sau:
Một là, tăng cường công tác truyền thông, giáo dục nâng cao ý thức, tri thức và trách nhiệm BVMT trong toàn quân.
- Tăng cường các hình thức tổ chức tuyên truyền nâng cao ý thức, trách nhiệm BVMT trong toàn quân phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, những thuận lợi, khó khăn và thách thức về môi trường sau khi Việt Nam tham gia WTO;
- Giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích tăng trưởng kinh tế, thực hiện nhiệm vụ chính trị xây dựng bảo vệ quốc phòng - an ninh và BVMT trong quân đội;
- Khuyến khích ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nhằm giảm thiểu nguồn phát thải gây ô nhiễm môi trường theo hướng phát triển bền vững;
- Bồi dưỡng nâng cao nhận thức hiểu biết về môi trường trong thời kỳ hội nhập (thực hiện tiêu chuẩn môi trường, rào cản môi trường, nhãn hiệu hàng hoá xanh, các điều ước quốc tế về BVMT… khi Việt Nam là thành viên WTO);
- Lồng ghép giáo dục về hoạt động môi trường trong chương trình đào tạo của các nhà trường, cơ sở đào tạo của Bộ Quốc phòng. Cung cấp đầy đủ, kịp thời tri thức cơ bản và xây dựng ý thức tự giác tham gia BVMT ở các cương vị theo chức năng, nhiệm vụ và đặc thù đơn vị ở khu vực đóng quân. Tiếp tục phát huy truyền thống xây dựng doanh trại quân đội chính quy, đơn vị xanh, sạch, đẹp, trồng cây, bảo vệ rừng, tôn vinh các tấm gương bảo vệ môi trường;
- Nghiên cứu thực tiễn, xây dựng, bồi dưỡng điển hình các đơn vị, doanh nghiệp quốc phòng đạt chuẩn mực quốc tế về môi trường thời kỳ hội nhập, đạt các tiêu chí đủ điều kiện cấp chứng chỉ ISO 14001/2004.
Hai là, tăng cường nguồn lực bảo vệ môi trường.
- Tăng cường phát triển năng lực quản lý và các điều kiện bảo đảm cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động quản lý môi trường từ cấp Bộ đến các đơn vị cơ sở. Hình thành và hoàn thiện hệ thống quản lý môi trường đồng bộ với Nhà nước, đủ năng lực triển khai các hoạt động môi trường tương ứng với yêu cầu nhiệm vụ;
- Ưu tiên cơ chế và tài chính phát triển nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ BVMT (công nghệ xanh, công nghệ sạch, thân thiện môi trường) ở các trung tâm, cơ sở nghiên cứu, nhà trường, các nhà máy và doanh nghiệp quốc phòng trong quân đội;
- Mở rộng hợp tác, phong phú các hình thức phối hợp hoạt động BVMT với các Bộ, ngành, địa phương và quốc tế nhằm tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động BVMT trong quân đội, góp phần BVMT quốc gia. Thực hiện tốt vai trò là lực lượng nòng cốt cứu hộ, cứu nạn, khắc phục triệt để hậu quả chất độc hoá học, tồn lưu bom mìn sau chiến tranh, sự cố thảm hoạ môi trường. Nghiên cứu điều chỉnh quy hoạch và hoạt động quốc phòng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Ba là, tiếp tục rà soát, nghiên cứu bổ sung, điều chỉnh ban hành các văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền nhằm thể chế hoá, cụ thể hoá kịp thời mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về BVMT trong quân đội phù hợp với luật pháp Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Để thực hiện các nội dung trên, cần:
- Coi trọng, đưa nội dung BVMT lồng ghép thường xuyên trong nghị quyết lãnh đạo và chỉ huy (xây dựng, triển khai kế hoạch thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị);
- Tăng cường công tác truyền thông, cung cấp cập nhật thông tin liên quan đến hoạt động môi trường phù hợp với đặc điểm, chức năng, nhiệm vụ đơn vị;
- Tích cực chủ động, thường xuyên làm công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát môi trường theo hướng phân định rõ quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm và ý thức BVMT đối với các tổ chức, cá nhân. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội về BVMT, “Người gây ô nhiễm môi trường phải trả tiền xử lý BVMT”;
- Tăng cường thực hiện và đa dạng hoá nguồn vốn hoạt động BVMT. Đảm bảo quản lý, sử dụng tốt các nguồn vốn đầu tư theo đúng mục đích, tiết kiệm, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm. Tích cực phân cấp, xã hội hoá đầu tư BVMT theo hướng chủ đầu tư là người hưởng lợi kết quả đầu tư.
- Phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương thực hiện quy hoạch môi trường hợp lý theo hướng: “Quy hoạch bố trí quốc phòng kết hợp với phát triển kinh tế phù hợp với tình hình mới, đảm bảo phát triển bền vững quốc phòng và kinh tế”.
- Chủ động xây dựng, củng cố, phát triển thế trận quốc phòng toàn dân ở các địa phương, địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, gắn với mục tiêu phát triển bền vững của Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 21 của Liên hợp quốc mà Việt Nam tham gia.
- Tăng cường nghiên cứu, điều tra cơ bản và quan trắc môi trường, xây dựng cơ sở luận cứ khoa học nhằm hoàn thiện các khu kinh tế quốc phòng, bảo vệ và khai thác hợp lý tài nguyên khu vực đóng quân, quan tâm cải thiện đời sống bộ đội, đảm bảo mọi cán bộ, chiến sĩ yên tâm gắn bó với nhiệm vụ chính trị đơn vị: giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và quốc phòng - an ninh trong tình hình mới.
Tiếp tục truyền thống tốt đẹp của quân đội trong chiến tranh giải phóng, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Quân uỷ Trung ương, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị cần quán triệt triển khai đầy đủ các nội dung cơ bản về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; phấn đấu xứng đáng là lực lượng nòng cốt, tiên phong trong hoạt động BVMT góp, phần thắng lợi vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.